Ý nghĩa và ảnh hưởng Thần_khúc

Thần khúc là một tác phẩm được trao một sứ mạng lịch sử đặc biệt: nó là sự tổng hợp những kiến thức triết học và nghệ thuật của văn hóa Trung cổ, đồng thời nó cũng là cầu nối liền với văn hóa thời đại Phục hưng. Dấu ấn Trung cổ trong tác phẩm rất rõ nét, từ ý thức, niềm tin tôn giáo, quan điểm triết học đến cách thể hiện tượng trưng, ngụ ý, ẩn ý (số 3 tượng trưng cho Chúa trời ở 3 ngôi "tam vị nhất thể", số 9 là tuổi của Dante và Beatrice khi gặp nhau lần đầu, ba con thú tượng trưng cho ba tính xấu: ghen tị-kiêu ngạo-keo kiệt). Tính chất Phục hưng trong tác phẩm cũng khá nổi bật, đó là thái độ khẳng định và tôn vinh cuộc sống với những hoan lạc trần thế, niềm khát khao hiểu biết thế giới song hành với những ước mơ cuộc sống hạnh phúc, trong sạch, đẹp đẽ hiện hữu ở thế giới thực tại này chứ không phải là ở thế giới bên kia. Bằng nghệ thuật ngôn từ điêu luyện của tác giả thể hiện qua những câu thơ ngân nga như lời ca điệu nhạc, kết hợp với những yếu tố mới mẻ trong nội dung so với thời đại khiến tác phẩm được các nhà nghiên cứu sau này đánh giá cao, được coi như dấu hiệu báo trước cho sự xuất hiện của một nền văn học lớn thời đại Phục hưng sắp ra đời.

Tuy nhiên, tác phẩm này không phải luôn được coi trọng. Sau một thời gian dài được xem là một kiệt tác nghệ thuật trong suốt mấy thế kỷ [14], tác phẩm rơi vào quên lãng trong thời đại Kỷ nguyên Ánh sáng, chỉ trừ một vài trường hợp đặc biệt như khi Vittorio AlfieriAntoine de Rivarol dịch nó sang tiếng Pháp, và khi Giambattista Vico, trong các tác phẩm Scienza nuova và Giudizio su Dante, tuyên phong Dante, mà sau này người ta gọi là sự ca ngợi lãng mạn nhất, đặt ông ngang hàng với nhà thơ Homer vĩ đại[15]. Bản Thần kịch được "tái phát hiện" bởi họa sĩ, và là cây bút theo chủ nghĩa lãng mạn William Blake - người vẽ minh họa cho một số đoạn của bản trường ca. Một số tác giả như T. S. Eliot, Ezra Pound, Samuel Beckett, và James Joyce cũng lấy nguồn cảm hứng từ tác phẩm này. Nhà thơ Henry Wadsworth Longfellow là người Mỹ đầu tiên,[16] cùng với những nhà thơ hiện đại khác, có thể kể đến Seamus Heaney,[17] Robert Pinsky, John Ciardi, và W. S. Merwin, cho ra đời một số đoạn dịch lại từ tác phẩm. Ở nước Nga, ngoài bản dịch một số đoạn tam khúc nổi tiếng của Pushkin, các tác phẩm về sau của Osip Mandelstam được cho là mang dấu ấn của sự "trầm tư day dứt" của vở nhạc kịch.[18]